Khảo sát mối liên quan giữa tăng huyết áp ẩn giấu với các yếu tố nguy cơ tim mạch và tổn thương cơ quan đích

TÓM TẮT

Mục tiêu: Tìm hiểu tỷ lệ tăng huyết áp (THA) ẩn giấu ở đối tượng có các yếu tố nguy cơ (YTNC) tim mạch và đối tượng THA đang điều trị có huyết áp lâm sàng bình thường. Khảo sát mối liên quan giữa THA ẩn giấu với các YTNC và tổn thương cơ quan đích.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, tiến hành từ tháng 5/2012 - 5/2013; gồm 140 bệnh nhân (nhóm YTNC có 70 người và nhóm THA có 70 người), độ tuổi trung bình 56,1 ± 7,3, thời gian đo holter huyết áp trung bình 23,6 ± 0,7 giờ.

Kết quả: Tỷ lệ THA ÂG là 21,4% (ở nhóm THA là 22,9% và ở nhóm YTNC là 20,0%). Mối liên quan các YTNC tim mạch:Giá trị BMI, Vòng bụng và tỷ lệ béo phì ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG. Nồng độ đường máu và tỷ lệ ĐTĐ ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG. Tỷ lệ rối loạn lipid máu chung, tăng cholesterol, tăng triglycerid ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG. Tổn thương các cơ quan đích: Tỷ lệ BTTMCB và Dày thất trái trên điện tâm đồ ở nhóm THA ÂG cao hơn so với nhóm không THA ÂG. Nồng độ và tỷ lệ tăng microalbumin niệu ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG. Có 72,3% bệnh nhân THA ÂG có tổn thương đáy mắt.

Kết luận: THA ẩn giấu chiếm tỷ lệ cao ở người có các YTNC tim mạch và người THA đang điều trị. Béo phì, ĐTĐ, rối loạn lipid máu và các biểu hiện tổn thương tim, thận, mắt có tỷ lệ cao ở nhóm THA ẩn giấu.

Từ khóa: Tăng huyết áp ẩn giấu, holter huyết áp, yếu tố nguy cơ, tổn thương cơ quan đích.

ABSTRACT

RELATIONSHIP BETWEEN MASKED HYPERTENSION AND CARDIOVASCULAR RISK FACTORS AND TARGET ORGANS DAMAGE

Vo Thi Ha Hoa1, Đang Van Tri1

Objects:    Studying percentage of masked hypertension (MH) in subjects with cardiovascular risk factors and treating hypertensive patients with normal clinical blood pressure (BP). Investigating the relation between MH and cardiovascular risk factors and target organs.

Subjects and Methods: This is a cross-sectional study conducted from May 2012 to May 2013; including 140 patients (70 patients with cardiovascular risk factors and 70 hypertensive patients with normal BP), mean age 56.1 ± 7.3; total recoding time of ABPM 23.6 ± 0.7 hours.

Results: The percentage of MH is 21.4% (22.9% in hypertension group and 20% in the cardiovascular risk factors group).     Relation to cardiovascular risk factors: BMI, obisety are higher in MH than in non-MH group. Glycemia and the percentage of diabetes mellitus are higher in MH than in non-MH group. The percentages of dyslipidemia, hypercholestolemia, hypertriglyceridemia are higher in MH than in non-MH group.          Target organs damage: The percentages of chronic ischemic heart disease and left ventricular hypertrophy are higher in MH than in non-MH group. Microalbuminuria is higher in MH than in non-MH. There is 72.3 percent of MH patients with damage of the fundus eyes.

Conclusions: There is high percentage of MH in patients with cardiovascular risk factors and in treating hypertensive patients with normal clinical BP. The obisety, diabetes mellitus, dyslipidemia and the damages of the heart, kidney, eyes occur with a high percentage in MH.

Keywords: Masked hypertension, ABPM, risk factors, target organs damage.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tăng huyết áp ẩn giấu (THA ÂG)chỉ được chẩn đoán nhờ sự phát triển của kỹ thuật đo holter huyết áp 24 giờ. Đó là tình trạng huyết áp bình thường dưới 140/90mmHg khi đo tại cơ sở y tế, còn khi đo ngoài cơ sở y tế (tại nhà hoặc đo huyết áp lưu động trong 24 giờ) có chỉ số trung bình trên 135/85mmHg. Theo Hội Tim mạch học Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân bị THA ÂG chiếm khỏang 5% dân số. Điều quan trọng là hầu như cả thầy thuốc và bệnh nhân đều chưa chú ý đến THA ÂG. Trong khi ở đối tượng THA ÂG thì các đặc điểm về biến thiên huyết áp, hiện tượng “không có trũng huyết áp” (non-dipper) ban đêm hay tăng vọt huyết áp buổi sáng là những yếu tố nguy cơ (YTNC) dễ gây các biến chứng tim mạch và tổn thương các cơ quan đích. Holter huyết áp 24 giờ có các ưu điểm là có thể đo, ghi lại và phân tích toàn bộ các biến thiên huyết áp trong 24 giờ. Trên cơ sở đó có thể phát hiện các cơn THA, các hiện tượng liên quan đến biến thiên nhịp sinh học với huyết áp, nhất là ở những đối tượng THA ÂG – là đối tượng dễ bị bỏ sót trong chẩn đoán cũng như theo dõi trong điều trị. Đối với những người có các yếu tố nguy cơ tim mạch và cả những người đã được chẩn đoán và đang điều trị THA thì việc chẩn đoán và theo dõi THA ÂG vẫn còn bỏ ngõ. Trước tính thời sự của các vấn đề trên, chúng tôi nghiên cứu áp dụng Holter huyết áp 24 giờ khảo sát sự biến thiên của huyết áp ở đối tượng có các YTNC tim mạch và những đối tượng THA đang được điều trị ổn định để có kế hoạch điều trị và dự phòng. Mục tiêu nghiên cứu:

- Tìm hiểu tỷ lệ THA ẩn giấu ở các đối tượng có một số YTNC tim mạch và các đối tượng THA đang điều trị có huyết áp lâm sàng bình thường.

- Khảo sát mối liên quan giữa THA ẩn giấu với các YTNC tim mạch và tổn thương cơ quan đích.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Khám tầm soát trên 600 đối tượng, độ tuổi từ 36 đến 70 tuổi, để chọn khỏang 140 người đáp ứng được yêu cầu của đối tượng nghiên cứu, tiến hành đo huyết áp 24 giờ bằng Holter huyết áp tại khoa Tim mạch, Bệnh viện C Đà Nẵng. 

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn nhóm nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được chia làm 2 nhóm:

Nhóm có YTNC tim mạch: Có 70 bệnh nhân, không có THA khi đo huyết áp quy ước        (< 140/90 mmHg), có các YTNC của bệnh tim mạch như: Tuổi, giới, hút thuốc lá, ít vận động, đái tháo đường, rối loạn lipid máu …

Nhóm THA: Có 70 bệnh nhân đã được chẩn đoán THA, hiện đang được điều trị, có huyết áp lâm sàng ổn định (huyết áp được kiểm soát < 140/90 mmHg).

2.1.2. Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu

Bệnh nhân THA nhưng chưa kiểm soát được (huyết áp lâm sàng ³ 140/90mmHg). Bệnh nhân được chẩn đoán THA triệu chứng. Đang mắc các bệnh lý cấp tính có ảnh hưởng đến huyết áp. Bệnh nhân có số lần đo Holter huyết áp 24 giờ không đạt 85% tổng thời gian đo.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Đây là nghiên cứu theo phương pháp tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh đối chứng giữa 2 nhóm có và không có THA trên lâm sàng, từ tháng 5/2012 đến tháng 5/2013.

Đo huyết áp lâm sàng: Theo phương pháp thường quy (huyết áp kế thủy ngân), mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều, trong 3 ngày liên tục. Huyết áp lâm sàng được đánh giá bằng trị số trung bình của huyết áp buổi sáng và buổi chiều được đo trong 3 ngày liên tiếp (6 lần đo). Tiêu chuẩn huyết áp lâm sàng bình thường khi < 140/90mmHg.

Đo Holter huyết áp: Những bệnh nhân có huyết áp lâm sàng bình thường sẽ được đo holter huyết áp 24 giờ. Huyết áp 24 giờ được đo bằng Holter huyết áp loại TONOPORT V- Germany, theo quy trình chuẩn và tự động cập nhật các thông số. Huyết áp ban ngày được đo từ 06giờ đến 21giờ59 phút (mỗi 30 phút máy tự động đo một lần) và huyết áp ban đêm từ 22 giờ đến 05 giờ 59 phút (mỗi 60 phút đo một lần).

Tiêu chuẩn chẩn đoán THA ẩn giấu: Theo tiêu chuẩn của ESH/ESC năm 2007:

Phân chia các nhóm đối tượng nghiên cứu: Áp dụng các tiêu chuẩn trên vào đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, gồm có các phân nhóm sau:

+ Nhóm có các YTNC tim mạch: Huyết áp bình thường (normotensive): Huyết áp lâm sàng và huyết áp 24 giờ đều bình thường; THA ẩn giấu (masked hypertension): Huyết áp lâm sàng bình thướng, huyết áp 24 giờ cao hơn bình thường.

+  Nhóm THA đang   điều trị  (đang kiểm soát): Huyết áp được kiểm soát (controlled hypertension): Huyết áp lâm sàng và huyết áp 24 giờ đều kiểm soát được ở mức bình thường; THA  ẩn giấu không kiểm soát    được (uncontrolled masked hypertension): Huyết áp lâm sàng kiểm soát được nhưng huyết áp 24 giờ cao hơn bình thường.

Đỉnh huyết áp buổi sáng (huyết áp lúc thức giấc): Được tính là huyết áp trung bình (tâm thu và tâm trương) từ 05 giờ 00 đến 06 giờ 59 phút buổi sáng. Huyết áp được xem là có đỉnh huyết áp buổi sáng (surge) khi huyết áp trung bình buổi sáng sớm (từ 05 giờ 00 đến 06 giờ 59) cao hơn 20mmHg so với huyết áp trung bình ban ngày trong khỏang thời gian còn lại (từ 07 giờ 00 đến 21 giờ 59 phút).

Phân chia trạng thái “Có trũng huyết áp ban đêm” (dipper) và “Không có trũng huyết áp ban đêm” (nondipper): Có trũng khi trạng thái giảm huyết áp trung bình ban đêm lớn hơn hoặc bằng 10% so với huyết áp trung bình ban ngày; tỷ lệ giảm huyết áp trung bình ban đêm của huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương được tính theo công thức: % = [ (trung bình huyết áp ban ngày) – (trung bình huyết áp ban đêm) ] x 100%.

“Giới hạn huyết áp” và “Quá tải huyết áp”: Giới hạn huyết áp ban ngày là 135/85 mmHg và giới hạn huyết áp ban đêm là 125/80 mmHg. Quá tải huyết áp (gánh nặng huyết áp) là % số lần huyết áp (tâm thu, tâm trương) vượt quá “Giới hạn huyết áp”.

Các tiêu chuẩn chẩn đoán các YTNC: Chẩn đoán đái tháo đường theo IDF năm 2009; chẩn đoán béo phì theo BMI của WHO áp dụng cho người lớn vùng Châu Á – Thái Bình Dương; chẩn đoán rối loạn lipid máu theo NCEP – ATPIII (2001).

Các tổn thương cơ quan đích: Tổn thương tim bằng đánh giá biểu hiện bệnh tim thiếu máu cục bộ và dày thất trái trên ECG. Tổn thương thận  bằng định lượng microalbumin niệu (bình thường < 20 ng/ml). Tổn thương mắt qua Soi đáy mắt và phân mức độ tổn thương võng mạc đáy mắt: Nhẹ, vừa, nặng. 

2.3. Xử lý số liệu

Các số liệu được thu thập và xử lý trên máy vi tính bằng phần mềm SPSS for Window 15.0, theo các phép thống kê y học thông thường. Sử dụng các phép thống kê mô tả về tỷ lệ %, trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và nhỏ nhất và các phép kiểm định thống kê.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Qua nghiên cứu 140 bệnh nhân (gồm 70 bệnh nhân có các YTNC tim mạch và 70 bệnh nhân THA đang điều trị có huyết áp lâm sàng ổn định), có độ tuổi trung bình 56,1 ± 7,3 (nhỏ nhất 36 tuổi, lớn nhất 70 tuổi); thời gian đo holter huyết áp trung bình 23,6 ± 0,7 giờ (ngắn nhất 21 giờ, dài nhất 24,5 giờ), chúng tôi có kết quả như sau:

3.1. Tỷ lệ tăng huyết áp ẩn giấu

Bảng 1. Tỷ lệ tăng huyết áp ẩn giấu ở hai nhóm nghiên cứu


Tỷ lệ THA ÂG ở cả hai nhóm là 21,4%; trong đó tỷ lệ THA ÂG ở nhóm THA là 22,9% và nhóm có YTNC là 20,0% (p > 0,05). 

3.2. Mối liên quan giữa THA ÂG với các YTNC tim mạch:

Bảng 2. Mối liên quan giữa THA ÂG với các chỉ số nhân trắc


Giá trị trung bình của BMI và Vòng bụng ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Bảng 3. Mối liên quan giữa THA ÂG với béo phì (n, %)


Tỷ lệ béo phì (theo BMI, VB) ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG.

Bảng 4. Mối liên quan giữa THA ÂG với đái tháo đường (n, %)


Nồng độ đường máu trung bình và nồng độ đường máu ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Bảng 5. Mối liên quan giữa THA ÂG với nồng độ lipid máu


  Nồng độ triglycerid ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Bảng 6. Mối liên quan giữa THA ÂG với rối loạn lipid máu (n, %)


Tỷ  lệ  rối loạn lipid máu, tăng cholesterol, tăng triglycerid ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

3.3. Mối liên quan giữa THA ÂG với tổn thương các cơ quan đích

Bảng 7. Mối liên quan giữa THA ÂG với BTTMCB và Dày thất trái trên điện tâm đồ


Tỷ lệ BTTMCB và Dày thất trái trên điện tâm đồ ở nhóm THA ÂG cao hơn so với nhóm không THA ÂG (p < 0,05). 

Bảng 8. Mối liên quan giữa THA ÂG với microalbumin niệu


Nồng độ và tỷ lệ tăng micro-albumin niệu ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Bảng 9. Mối liên quan giữa THA ÂG với tổn thương đáy mắt


Có 72,3% bệnh nhân THA ÂG có tổn thương đáy mắt với các mức độ từ nhẹ đến nặng, trong đó chủ yếu gặp mức độ nhẹ chiếm 50,0%.

4. BÀN LUẬN

4.1. Tỷ lệ tăng huyết áp ẩn giấu

Tỷ lệ THA ẩn giấu ở cả hai nhóm là 21,4% (ở nhóm THA là 22,9% và nhóm có YTNC là 20,0%). Kết quả này của chúng tôi cao hơn của tác giả Thân Hồng Anh (2009, tại BV 175 với tỷ lệ là 18%, ở nhóm THA là 23% và nhóm YTNC là 12%); và tương đương với các tác giả nước ngoài như Pascal Desart (28,9%) [8]; các tác giả khác có tỷ lệ THA ẩn giấu từ 10% đến 30% (Gallo, Yin,...) [1], [11]. Các kết quả này do việc chọn đối tượng nghiên cứu và giới hạn mức huyết áp cài đặt cho holter khác nhau, nhưng nhìn chung THA ẩn giấu vẫn chiếm một tỷ lệ đáng để quan tâm. Nghiên cứu PAMELA (gồm 3.200 người trong cộng đồng, tại Italia) thấy có 67% huyết áp bình thường, 12% THA thật sự, 12% THA áo choàng trắng và 9% THA ẩn giấu. Đồng thời nghiên cứu này cũng cho thấy tăng chỉ số khối cơ thất trái là tương đương giữa THA ẩn giấu (86g/m2) và THA thật sự (90g/m2), còn ở người huyết áp bình thường chỉ là 73g/m2; tỷ  lệ có mảng xơ vữa động mạch cảnh là 28% ở cả THA ẩn giấu và THA thật sự, trong khi người huyết áp bình thường tỷ lệ này chỉ chiếm 15%. Nghiên cứu OHASAMA (2005, tại Nhật), sau 10 năm theo dõi ở 1332 người cũng thấy nguy cơ đột quỵ và bệnh lý tim mạch ở người THA ẩn giấu là 2,13 (95%CI: 1,38 – 3,29) và THA thật sự là 2,26 (95%CI: 1,49 – 3,41) [10]. Vì vậy sử dụng holter huyết áp 24 giờ để chẩn đoán sớm THA ẩn giấu và theo dõi, điều trị để hạn chế tổn thương cơ quan đích luôn là biện pháp mang lại nhiều lợi ích.

4.2. Mối liên quan giữa THA ẩn giấu với các YTNC tim mạch

Béo phì liên quan đến một loạt các yếu tố nguy cơ  của xơ  vữa động mạch và bệnh tim mạch bao gồm tăng huyết áp, kháng insulin, rối loạn dung nạp          đường, cholesterol tăng cao, tăng triglycerid, giảm HDL-c và tăng fibrinogen trong huyết tương. Kết quả nghiên cứu Framingham Heart Study, Nurses’s Health Study và một số nghiên cứu khác cho thấy mối liên quan thuận giữa trọng lượng cơ thể và THA. Phân bố mỡ trong cơ thể cũng là một yếu tố quan trọng khi những người béo bụng (còn gọi là béo trung tâm) có nguy cơ cao nhất. Béo phì cũng ảnh hưởng đáng kể  tới tăng huyết áp, nguy cơ  tăng gần gấp đôi ở những bệnh nhân béo phì (BMI ≥ 30kg/m2) so với người không béo phì.

So với người không bị đái tháo đường, THA gặp ở người đái tháo đường nhiều gấp đôi. Ngoài ra, bản thân THA làm tăng mạnh các yếu tố nguy cơ vốn đã tăng ở bệnh nhân đái tháo đường. Đái tháo đường làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành gấp hai lần ở nam và bốn lần ở nữ. Có cả THA và đái tháo đường sẽ làm tăng gấp đôi biến chứng mạch máu lớn và nhỏ và làm tăng gấp đôi nguy cơ tử vong khi so với bệnh nhân THA nhưng không bị đái tháo đường.

Mối liên quan giữa THA và rối loạn lipid máu đã được nghiều nghiên cứu đề cập, và nằm trong Hội chứng chuyển hóa mô tả một chuỗi các yếu tố nguy cơ tim mạch liên quan đến tăng huyết áp, béo bụng, rối loạn lipid máu và đề kháng insulin. Nhiều triệu chứng liên quan khác cũng được báo cáo như tăng insulin máu, đề kháng insulin và tăng mật độ các tiểu thể LDL-c. Theo nghiên cứu quốc tế I – SEARCH tiến hành trên người Việt Nam năm 2007 -2008, Đây là một nghiên cứu quan sát, cắt ngang, đa trung tâm quốc tế trên 22.282 bệnh nhân từ 26 quốc gia trên thế giới, riêng tại Việt Nam có tổng cộng 487 bệnh nhân đến khám tại 32 Trung tâm tim mạch. Tỷ  lệ micro-albumin niệu trên bệnh nhân tăng huyết áp tại Việt Nam là 70,48% cao hơn so với tỷ lệ toàn cầu là 58,4%. Các yếu tố nguy cơ tim mạch được ghi nhận bao gồm: 70,32% bệnh nhân có tăng lipid máu, 35,95% có HDL - c thấp, 34,3% bệnh nhân bị thừa cân hay béo phì, 22,45% có vòng eo cao, đái tháo đường 12,8%. Các bệnh lý đi kèm gồm: 14,5% bệnh nhân có bệnh mạch vành, 4,37% bệnh nhân có bệnh mạch máu não.

Như  vậy, các YTNC trong các     đối tượng THA    ở nghiên cứu của chúng tôi có kết quả tương đương với nghiên cứu trên. So sánh kết quả của chúng tôi và nghiên cứu I – SEARCH lần lượt: Rối loạn lipid máu (69,1% và 70,32%), thừa cân béo phì (32,9% và 34,3%), đái tháo đường (15,5% và 12,8%). Cũng từ kết quả này, các YTNC này ở nhóm THA ÂG lại cao hơn ở nhóm không THA ÂG. Điều này cho thấy đối với những đối tượng có đái tháo đường, thừa cân béo phì và rối loạn lipid máu thì cần tầm soát nguy cơ THA ÂG sớm để được chẩn đoán sớm và có kế hoạch theo dõi và điều trị phù hợp.

4.3. Mối liên quan giữa THA ẩn giấu với tổn thương các cơ quan đích

Do tổn thương cơ quan đích đóng vai trò quan trọng trong dự báo nguy cơ tim mạch toàn thể của bệnh nhân THA việc thăm khám phải được tiến hành cẩn thận. Các nghiên cứu gần đây cho thấy khuyến khích sử dụng siêu âm tim và điện tâm đồ để đánh giá tổn thương cơ quan đích và phân loại nguy cơ trong THA. Mặt khác, tìm microalbumin niệu cũng được khuyến khích vì bằng chứng cho thấy đó là một dấu chứng nhạy cảm cho tổn thương cơ quan đích, không chỉ ở bệnh nhân đái tháo đường mà còn trên bệnh nhân THA.

Tỷ lệ phì đại thất trái trên điện tâm đồ trong nghiên cứu của chúng tôi là: 37,1%. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác (Hoàng Bùi Bảo là 39,3%; Phạm Nguyễn Sơn là 42,6%; Nguyễn Lưu Xuân Phương và Huỳnh Văn Minh là 45%).

Tăng huyết áp vừa là một yếu tố nguy cơ tim mạch vừa là yếu tố tạo thuận lợi cho sự xuất hiện microalbumin niệu. Tuy nhiên trong hầu hết các nghiên cứu, microalbumin niệu vẫn có ý nghĩa dự báo    độc lập các tai biến tim mạch sau khi          đưa mức huyết áp về      ổn  định. Theo NHANES III (Third National Heath And Nutrition Examination Survery - Hoa Kỳ) tần suất lưu hành trong dân số chung của microalbumin niệu là 10,6%; của nghiên cứu EPIC-NORFOLK (Anh) là 11,8%; của nghiên cứu PREVEND (Hà Lan) là 7%. Nghiên cứu MAPS (Microalbuminuria Prevalence Study) thực hiện trên 5549 bệnh nhân        đái tháo đường týp 2    ở 10 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ của Châu Á cho thấy tần suất lưu hành của microalbumin niệu lên đến 39,8%. Ở Việt Nam nghiên cứu 304 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tăng huyết áp được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ microalbumin niệu là 26,6%. Đây là những con số rất đáng báo động vì cả albumin niệu lẫn albumin niệu lâm sàng đều có ý nghĩa tiên lượng sự suy giảm chức năng thận và tai biến tim mạch.

5. KẾT LUẬN

Qua theo dõi huyết áp bằng kỹ thuật Holter huyết áp 24 giờ của 70 người THA được điều trị ổn định và 70 người có YTNC tim mạch, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: (1) Tỷ lệ tăng huyết áp ẩn giấu: Tỷ lệ THA ÂG là 21,4%; trong đó tỷ lệ THA ÂG ở nhóm THA là 22,9% và ở nhóm YTNC là 20,0%.

(2) Mối liên quan giữa tăng huyết áp ẩn giấu với các YTNC tim mạch:

Béo phì: Giá trị trung bình của BMI và Vòng bụng ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05). Tỷ lệ béo phì theo BMI và vòng bụng ở nhóm THA ÂG lần lượt là 66,7% và 73,3% cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Đái tháo đường: Nồng độ đường máu trung bình ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (5,6 ± 0,8 mmol/l so với 5,2 ± 1,0 mmol/l; p < 0,05). Tỷ lệ đái tháo đường ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (30,0% so với 15,5%; p < 0,05).

Rối loạn lipid máu: Tỷ lệ rối loạn lipid máu, tăng cholesterol, tăng triglycerid ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (p < 0,05).

Tỷ lệ hút thuốc lá ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG.

(3) Mối liên quan giữa tăng huyết áp ẩn giấu với tổn thương cơ quan đích:

Tổn thương tim: Tỷ lệ BTTMCB trên điện tâm đồ ở nhóm THA ÂG cao hơn so với nhóm không THA ÂG (56,7% so với 18,2%; p < 0,05). Tỷ lệ dày thất trái trên điện tâm đồ ở nhóm THA ÂG cao hơn so với nhóm không THA ÂG (56,7% so với 31,8%; p < 0,05).

Tổn thương thận: Nồng độ microalbumin niệu ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (52,9 ± 24,7 ng/ml so với 20,7 ± 4,3 ng/ml. Tỷ  lệ  tăng microalbumin niệu ở nhóm THA ÂG cao hơn nhóm không THA ÂG (36,7% so với 20,0%; p < 0,05).

Tổn thương đáy mắt: Có 72,3% bệnh nhân THA ÂG có tổn thương đáy mắt với các mức độ từ nhẹ đến nặng, trong đó chủ yếu gặp mức độ nhẹ chiếm 50,0%. Khác biệt về tỷ lệ các mức độ tổn thương đáy mắt giữa hai nhóm không có   nghĩa thống kê.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thân Hồng Anh, Quách Ngân Hà (2009), Một số đặc điểm tăng huyết áp ẩn giấu được phát hiện bằng đo huyết áp lưu động 24 giờ, Kỷ yếu Hội nghị Tim mạch toàn quốc lần thứ XII.

2. Nguyễn Hữu Trâm Em, Phan Văn Duyệt, Ngô Ngọc Ngân Linh, Phan Thanh Hải (2002), “Khảo sát nhịp sinh học huyết áp bằng kỹ thuật theo dõi huyết áp 24 giờ - ABPM, Kỷ yếu Hội nghị Tim mạch quốc gia Việt Nam lần thứ IX.

3. Huỳnh Văn Minh, Lê Thanh Hải (2006), Mối liên quan giữa tình trạng có trũng hay không có trũng huyết áp ban đêm và nguy cơ bệnh lý tim mạch, tr 1-12.

4. Huỳnh Văn Minh (2010), Tăng huyết áp ẩn giấu, Kỷ yếu Hội nghị Tim mạch toàn quốc lần thứ XII.

5. Vũ Hà Nga Sơn, Bùi Minh Thu (2006), “Nghiên cứu các đặc tính huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp bằng holter 24 giờ”, Kỷ yếu báo cáo tóm tắt Hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc lần thứ XI, trang 6-7.

6. Fabio Angeli, Gianpaolo Reboldi and Paolo Verdecchia (2010), Masked Hypertension: Evaluation, Prognosis, and Treatment, American Journal of Hypertension, Vol 23, pp 941-48.

7. Giuseppe Mancia, Gianfranco Parati (2000), Ambulatory Blood Pressure Monitoring and Organ damage,Hypertension, vol 36, pp 894-900.