Thuyên tắc động mạch phổi là một loại bệnh lý hay gặp với diễn biến nhanh và nặng ngay sau khi khởi phát. Bên cạnh các nguyên nhân như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, một nguyên nhân nữa thường ít được chú ý đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ. Đây là hiện tượng mạch máu ở phổi bị thuyên tắc do những hạt mỡ gây ra. Những hạt mỡ này xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, thoát vào mạch máu, lên phổi gây tắc mạch.
Nguyên nhân nào?
Tắc mạch phổi (TMP) do mỡ thường có liên quan với chấn thương gãy, vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay, xương sườn), xương chậu và người ta thấy rằng nguyên nhân gãy kín thì gây TMP nhiều hơn là gãy hở (phần xương gãy có thông ra bên ngoài da). Khoảng 1-3% số bệnh nhân bị gãy các xương dài có nguy cơ bị TMP do mỡ và tỷ lệ này tăng lên theo số lượng xương bị tổn thương. Một số thống kê cho thấy TMP do mỡ có thể lên đến 33% ở những bệnh nhân bị gãy vỡ xương đùi cả hai bên. Phần lớn những ca TMP do mỡ xảy ra ở người trẻ, nam giới do có liên quan đến tai nạn các loại (nhất là tai nạn giao thông). Ở trẻ em, TMP do mỡ rất ít gặp với lý do chính là tủy xương trẻ em thì thành phần tạo máu chiếm phần lớn và lượng mỡ không nhiều. Bên cạnh đó, TMP do mỡ cũng có thể do thủ thuật ép tim khi cấp cứu ngừng tim làm gãy xương sườn, do bỏng nặng, ghép tủy xương, thủ thuật hút mỡ (mỡ bụng, mỡ đùi...) trong phẫu thuật thẩm mỹ. Một số các nguyên nhân ít gặp khác bao gồm: viêm tụy cấp, viêm tủy xương, ly giải các khối u xương, truyền mỡ, bệnh gan nhiễm mỡ do rượu...
Bên cạnh các nguyên nhân như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, một nguyên nhân nữa thường ít được chú ý đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ.
Tại sao mỡ gây tắc mạch?
Có ba cơ chế có thể gây TMP do mỡ, thứ nhất là cơ chế cơ học do Gauss đưa ra năm 1924. Theo đó, khi các xương dài, xương lớn bị gãy hoặc do các nguyên nhân khác làm xuất hiện những hạt mỡ nhỏ trong máu, các hạt mỡ này sẽ theo đường tĩnh mạch, lên tim phải và theo động mạch phổi lên phổi gây tắc. Vị trí động mạch bị tắc cũng như mức độ nặng sẽ phụ thuộc vào kích thước của những hạt mỡ. Cơ chế thứ hai là do hiện tượng lý giải các hạt mỡ trung tính từ tủy xương sau khi vào máu thành những sản phẩm có độc tính cao, gây tổn thương mạch máu cùng nhu mô phổi và cơ chế thứ ba có liên quan đến việc hoạt hóa các đông máu ngoại sinh do các sản phẩm từ tủy xương phóng thích ra sau khi xương gãy dẫn đến việc hình thành các vi cục máu đông. Các cục máu đông này cùng với các yếu tố gây viêm (bạch cầu, các cytokines), tiểu cầu và các hạt mỡ kết hợp với nhau gây thuyên tắc và tổn thương mạch phổi.
Biểu hiện của tắc mạch phổi do mỡ
TMP do mỡ thường xảy ra ở thời điểm 12-72 giờ sau tổn thương. Hiếm gặp các trường hợp khởi bệnh ngoài giai đoạn này. Dấu hiệu của TMP do mỡ bao gồm các triệu chứng của suy hô hấp: kích thích vật vã, tím tái vã mồ hôi, nhịp thở nhanh nông, mạch nhanh, huyết áp tăng, đau ngực và nhiều khi có biểu hiện của phù phổi cấp: suy hô hấp nhanh, khạc bọt hồng. Ngoài ra, người ta cũng thấy có các triệu chứng kèm theo như rối loạn ý thức, co giật hoặc nói khó, liệt chi. Các ban xuất huyết cũng xảy ra ở khoảng 60% các trường hợp TMP do mỡ và được lý giải là do tắc các mạch nhỏ dưới da do mỡ. Một số bệnh nhân cũng có xuất huyết võng mạc, rối loạn nhịp tim và sốt cao. Chẩn đoán xác định TMP do mỡ dựa vào tiền sử bệnh nhân có các nguyên nhân gợi ý (chấn thương, viêm tụy cấp...) và các thông số cận lâm sàng như khí máu, Xquang tim phổi, siêu âm tim, soi đáy mắt, chụp cắt lớp vi tính sọ não...
Chấn thương gãy vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay), đặc biệt là gãy kín là một trong những nguyên nhân gây tắc ĐMP.
Chữa trị và phòng ngừa
Điều trị TMP do mỡ bao gồm các bước như cho bệnh nhân thở ôxy và một số thuốc như corticosteroid, aspirin, heparin và N-Acetylcysteine. Trong đa số các trường hợp, bệnh nhân phục hồi tốt và không để lại di chứng nào đáng kể. Có một vài trường hợp suy hô hấp nặng, phải thở máy kéo dài cũng như cần đến các biện pháp hồi sức tích cực khác.
Dự phòng TMP do mỡ bằng các biện pháp như cố định tốt xương gãy, phẫu thuật sớm, làm giảm áp lực tủy xương chỗ gãy vỡ bằng dẫn lưu, phẫu thuật (để tránh cho những hạt mỡ bị đẩy vào tĩnh mạch do áp lực cao) cũng như điều trị tốt các bệnh lý nội khoa như viêm tụy cấp, viêm tủy xương...
Nguồn Sức khỏe & đời sống