Ðiều chỉnh giá dịch vụ y tế từ ngày 1/6 - Người dân cần và nên tham gia BHYT

Theo Thông tư số 02/2017/TT-BYT của Bộ Y tế, từ ngày 1/6/2017 các cơ sở y tế công lập sẽ chính thức áp dụng giá viện phí mới cho hơn 1.900 dịch vụ y tế

Theo Thông tư số 02/2017/TT-BYT của Bộ Y tế, từ ngày 1/6/2017 các cơ sở y tế công lập sẽ chính thức áp dụng giá viện phí mới cho hơn 1.900 dịch vụ y tế đối với nhóm đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), và một số dịch vụ khám chữa bệnh (KCB) không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT. Tác động của điều chỉnh giá dịch vụ y tế này sẽ tác động đến người bệnh ra sao? Xung quanh vấn đề này, ông Lê Văn Phúc - Phó Trưởng ban Phụ trách Ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam) đã nhấn mạnh, người dân cần và nên tham gia BHYT.

Theo ông Lê Văn Phúc, mức giá tối đa được quy định tại thông tư này cũng tương đương với giá đã ban hành cho nhóm bệnh nhân có BHYT theo các hạng bệnh viện (BV). Việc tăng giá lần này chủ yếu tập trung vào tăng giá khám bệnh và giá giường nằm. Cụ thể, tiền khám bệnh đã tăng gấp 4 lần ở PKĐK khu vực, trạm y tế xã; tăng 2 lần ở BV hạng 1 và hạng 2. Theo quy định mới, tiền khám tối đa (bao gồm chi phí trực tiếp và tiền lương) ở BV hạng đặc biệt và BV hạng 1 là 39.000 đồng/lượt; hạng 2 là 35.000 đồng/lượt; hạng 3 là 31.000 đồng/lượt và BV hạng 4/PKĐK khu vực, trạm y tế xã là 29.000 đồng/lượt.

Ðiều chỉnh giá dịch vụ y tế từ ngày 1/6 - Người dân cần và nên tham gia BHYTẢnh: nguồn internet

Giá tối đa dịch vụ ngày điều trị hồi sức tích cực tại BV hạng đặc biệt là 677.100 đồng; BV hạng 1 là 632.200 đồng; BV hạng 2 là 568.900 đồng. Đối với ngày giường bệnh hồi sức cấp cứu, chống độc, các mức tương ứng là: 362.800 đồng/ngày, 335.900 đồng/ngày, 279.100 đồng/ngày; tại BV hạng 3 là 245.700 đồng/ngày và BV hạng 4 là 226.000 đồng/ngày...

Mức tăng này là rất đáng kể khi người bệnh phải điều trị nội trú, điều trị dài ngày. Tuy nhiên, tác động mạnh nhất đến người bệnh chưa có thẻ BHYT phải là nhóm giá dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm dành cho các hạng BV bất kể người bệnh điều trị ngoại trú hay nội trú, điều trị ít ngày hay dài ngày.

Ví dụ như chụp Xquang động mạch vành hoặc thông tim, chụp buồng tim dưới DSA tăng từ 5,1 triệu đồng lên gần 5,8 triệu đồng; chụp và can thiệp tim mạch dưới DSA từ 6 triệu lên gần 6,7 triệu đồng; nội soi ổ bụng từ 575.000 đồng tăng lên 793.000 đồng, nội soi thực quản - dạ dày - tá tràng có sinh thiết tăng từ 220.000 đồng lên 385.000 đồng...

Theo Thông tư 02, chỉ có nhóm giá khám bệnh, ngày giường điều trị là khác nhau theo hạng BV, còn lại các dịch vụ kỹ thuật, xét nghiệm đều thực hiện thống nhất một mức giá tại tất cả các BV trên toàn quốc. Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC, quy định thống nhất giá dịch vụ KCB BHYT giữa các BV cùng hạng trên toàn quốc cũng đang thực hiện theo nguyên tắc này.

Điều khác nhau cơ bản giữa người có thẻ BHYT và không có thẻ BHYT là bệnh nhân BHYT đã được quỹ BHYT chi trả từ 80-100% chi phí, tùy theo từng đối tượng thụ hưởng. Còn bệnh nhân khám dịch vụ sẽ phải chi trả 100% toàn bộ chi phí KCB. Như vậy khoản tiền người KCB không có BHYT phải trả thêm so với mức giá hiện hành sẽ là con số không nhỏ. Đặc biệt, những bệnh nhân cần sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, thì mức chi 100% từ tiền túi rất lớn, ví dụ như chụp PET/CT chi phí tối đa đã lên tới hơn 20 triệu đồng; chi phí PET/CT mô phỏng xạ trị gần 21 triệu đồng...

Do đó, theo ông Lê Văn Phúc, với Thông tư 02, chúng ta sẽ tạo sự công bằng hơn trong việc thực hiện chính sách chung khi giá dịch vụ y tế tương đương nhau khi cung cấp cho cả người có thẻ BHYT và không có thẻ BHYT. Việc tăng giá chắc chắn có tác động đến ý thức tham gia BHYT của người dân, càng rõ hơn tầm quan trọng và ý nghĩa của BHYT.

Tuy nhiên, ông Phúc cũng cho hay, chúng ta không nên và không thể trông chờ việc tăng giá dịch vụ y tế là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy tham gia BHYT của người dân. Đúng là giá chính là một “chế tài mềm”, hiệu quả của chế tài này sẽ phát huy tốt khi chúng ta tính đủ 7/7 yếu tố chi phí vào giá dịch vụ y tế. Tuy nhiên chủ trương này sẽ phải thực hiện theo lộ trình.

Theo thống kê của BHXH các tỉnh, thành phố, hiện nay tỷ lệ người có thẻ BHYT đi KCB tại cơ sở y tế tuyến xã, tuyến huyện chiếm tới 95%. Điều đó có nghĩa là kể cả với mức giá cũ nhóm người không có thẻ BHYT cũng chủ yếu đi KCB tại các BV tuyến tỉnh trở lên trong trường hợp có nhu cầu KCB thực sự. Vào thời điểm hiện nay, chế tài về giá vẫn chưa đủ mạnh mẽ để tạo bước “đột biến” trong tỷ lệ tham gia BHYT, mà phải có những giải pháp khác như tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT, hỗ trợ cho người dân mua BHYT, nâng cao chất lượng KCB, cung cấp dịch vụ y tế...

Nguồn Sức khỏe và đời sống