Nghiên cứu rối loạn lipid máu ở người cao tuổi tăng huyết áp tại tỉnh Phú Yên

TÓM TẮT

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, đặc điểm rối loạn lipid máu ở người cao tuổi tăng huyết áp và tìm hiểu mối liên quan, tương quan giữa các thành phần lipid máu với tuổi, BMI, vòng bụng, mức độ gan nhiễm mỡ, độ tăng huyết áp và các biến cố tim mạch.

Đối tượng và phương pháp: Gồm 350 người cao tuổi đến khám được làm xét nghiệm bilan lipid máu và khảo sát các yếu tố nguy cơ từ đó chọn ra những bệnh nhân THA, khảo sát rối loạn lipid máu ở bệnh nhân THA và tìm hiểu mối liên quan giữa rối loạn lipid máu với các yếu tố nguy cơ tim mạch.

Kết quả: Tỷ lệ rối loạn lipid máu chiếm 77,4% trong đó nữ cao hơn nam (51,4% so với 26,9%), p<0,005. Tăng CT chiếm 53,4%, TG chiếm 33,1%, LDL-c chiếm 39,4%, HDL-c giảm chiếm 4,9%. Các yếu tố nguy cơ: ĐTĐ chiếm 38,29%, béo phì chiếm 71,71%, hút thuốc lá 14%, p < 0,05.   Tỷ lệ là 69,7% trong đó THA     độ I là 29,4%, THA độ II là 36,9% và THA độ III là 3,4%. Tăng CT, TG và non HDL-c chiếm tỷ lệ cao ở cả THA độ I, độ II và độ III trong khi LDL-c và HDL-c có tỷ lệ tương đương ở cả 3 mức độ THA. Tỷ lệ gan nhiễm mỡ có liên quan đến rối loạn lipid máu chiếm 49,43%, p<0,001. Tỷ lệ gan nhiễm mỡ độ 1 chiếm 64%, độ 2 chiếm 34,5% và độ 3 chiếm 1,5%. Có sự tương quan mức độ vừa giữa CT toàn phần với BMI, VB và độ THA; giữa TG với tuổi, BMI, VB, độ THA; giữa LDL-c với BMI và độ THA, p<0,001. Không có sự tương quan giữa HDL-c với các yếu tố nguy cơ tim mạch và gan nhiễm mỡ, p>0,05.

Kết luận: Rối loạn lipid máu chiếm tỷ lệ cao ở người cao tuổi tăng huyết áp. Có liên quan khá chặt chẽ giữa rối loạn lipid máu với các yếu tố nguy cơ tim mạch.

Từ khóaRối loạn lipid máu, người cao tuổi, tăng huyết áp.

ABSTRACT

DYSLIPIDEMIA IN ELDERLY HYPERTENSIVE PATIENTS WITH HYPERTENSION AT PHU YEN PROVINCE

Nguyen Thi Hong Thuy1

Objectives:

- To determine the prevalence and characteristics of dyslipidemia in elderly hypertensive patients;

- To determine the relationship and/or correlation between the lipid profiles with age, BMI, waist circumference, degree of fatty liver, grade of hypertension and cardiovascular events.

Subjects and methods: Plasma lipid profile and cardiovascular risk factors were evaluated in 350 elderly people, and in subgroup with hypertension, characteristics of dyslipdemia as well as the relationship and/or correlation between the lipid profiles with cardiovascular risk factors were investigated…

Results: The prevalence of dyslipidemia was 77.4 %, significantly higher in women than in men: 51.4 % vs 26.9 %, respectively. The prevalence of hypercholesterolemia, hypertriglyceridemia, increased LDL-C and decreased HDL-C were 53.4 %, 33.1 %, 39.4 %,  4.9 %, respectively. The cardiovascular risk factors were as follows: diabetes in 38.29 %, obesity in 71.71 %, smoking habit in 14 %, p < 0.05. Hypertension was found in 69.7 %, in which grade I 29.4 %, grade II 36.9 % and grade III 3.4 %. Hypercholesterolemia, hypertriglyceridemia, and decreased HDL-C were common in group with grade III of hypertension. Fatty liver was found in 49.43% patients with dyslipidemia, p < 0.001. Fatty liver level 1, 2 and 3 were reported in 64%, 34.5 %, and 31.5%, respectively. There was a significant and moderate correlation between CT with BMI, WC and hypertension grade; between TG with age, BMI, WC and the hypertension grade. There was no correlation between HDL - C with cardiovascular risk factors and fatty liver, p > 0.05.

Conclusion: Dyslipidemia was common in elderly hypertensive patients and there was rather strong correlation between dyslipidemia and cardiovascular risk factors.

KeywordsDyslipidemia, the elderly, hypertension.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhiều nước trong khu vực châu Á đang phải đối mặt với thách thức về số lượng người cao tuổi ngày càng gia tăng. Tăng huyết áp ở người cao tuổi thường gây các biến chứng nặng nề và tỷ lệ tử vong cao như: Đột qụy, hội chứng vành cấp và các biến chứng mạch máu [3], [11]. Rối loạn lipid máu (RLLPM) là một trong những nguyên nhân bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi. Nhiều nghiên cứu lớn đã chứng minh rằng giải quyết được RLLPM sẽ hạn chế các biến cố tim mạch [13]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nếu cholesterol toàn phần giảm được 23mg% ở người tuổi 40 sẽ giảm 54% nguy cơ bệnh tim mạch còn ở tuổi 70 thì giảm 20% nguy cơ bệnh tim mạch. Còn nếu HDL-C tăng 1,2 mg% thì giảm được 3% nguy cơ bệnh tim mạch [12]. Xuất phát từ những lý do trên, để tìm hiểu mối liên quan giữa các thành phần của bilan lipid với tuổi và tăng huyết áp, góp phần tiên lượng cũng như  dự  hậu các biến cố tim mạch, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu rối loạn lipid máu ở người cao tuổi tăng huyết áp tại tỉnh Phú Yên” với 2 mục tiêu:

1. Xác định tỷ lệ và các dạng rối loạn lipid máu ở người cao tuổi có tăng huyết áp.

2. Xác định mối liên quan, tương quan giữa các thành phần lipid máu với tuổi, BMI, vòng bụng, vòng mông, gan nhiễm mỡ, trị số huyết áp và các biến cố tim mạch.

2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là 350 người từ 60 tuổi trở lên đến khám tại Phòng khám Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên từ tháng 04/2012 đến tháng 04/2013. Đáp ứng các tiêu chuẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ chặt chẽ.

- Tiêu chuẩn chọn bệnh:

+ Chọn 350 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám và điều trị tại phòng khám Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên; 

+ Trong 350 bệnh nhân, chúng tôi chọn ra những bệnh nhân được chẩn đoán xác định THA theo Khuyến cáo của Hội Tăng huyết áp Việt nam năm 2008 từ đó tính tỷ lệ tăng huyết áp.

- Tiêu chuẩn loại trừ: Chúng tôi loại trừ khỏi nghiên cứu các đối tượng:

Những bệnh nhân đang mắc các bệnh ảnh hưởng đến sự hấp thu và chuyển hóa, đang dùng các thuốc có ảnh hưởng đến các thành phần của lipid máu.

Bệnh nhân  đang mắc bệnh lý   ảnh hưởng   đến thể trạng, cân nặng, chiều cao, vòng bụng, vòng mông (như bệnh thận có phù, suy tim, xơ gan mất bù), các bệnh nội tiết như cường giáp (Basedow, Hashimoto...), suy giáp, hội chứng Cushing...

Tất cả được làm xét nghiệm Bilan lipid máu và khảo sát các yếu tố nguy cơ từ đó chọn ra những bệnh nhân có RLLPM, tăng huyết áp theo tiêu chuẩn chẩn           đoán của Hội tim mạch            Việt Nam 2008 và NCEP- ATPIII 2001.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mô tả cắt ngang, tiến cứu.

Đánh giá các yếu tố nguy cơ:     Bao gồm xác định BMV hoặc các bệnh lý tương đương BMV như: Đái tháo đường, xơ vữa ĐM, bệnh động mạch ngoại biên, TBMMN. Xác định các nguy cơ tim mạch như: Người cao tuổi, hút thuốc lá, tăng huyết áp, HDL-c thấp (<40 mg%), tiền sử gia đình có người bị bệnh ĐM vành sớm (nam < 55 tuổi, nữ < 65 tuổi).

Phương pháp đánh giá lâm sàng:

- Đo cân nặng, chiều cao: Tính chỉ số khối cơ thể: BMI = P/H2(kg/m2).

Đo vòng bụng (VB: VB ở nam ≥ 90cm, ở nữ ≥ 80cm là chẩn đoán béo bụng (béo phì trung tâm).

Đánh giá tình trạng béo phì: Dựa trên chỉ số BMI theo tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì của TCYTTG dành cho các nước châu Á[13].

Bảng 1. Tiêu chuẩn béo phì của TCYTTG dành cho các nước Châu Á


Đánh giá tăng huyết áp: Đo huyết áp và phân loại tăng huyết áp theo Hội Tăng huyết áp Việt Nam và WHO/ISH 2008[11].

Bảng 2. Phân loại HA


Khi HATT và HATTr không cùng phân loại thì chọn phân loại cao nhất dựa theo HATT hoặc HATTr.

THA tâm thu đơn độc khi HATT ≥ 140 mmHg và HATTr < 90 mmHg.

THA tâm trương đơn độc khi HATT < 140 mmHg và HATTr ≥ 90 mmHg [11]. Phương pháp đánh giá cận lâm sàng.

- Định lượng bilan lipid máu: Mẫu máu tĩnh mạch 2ml lấy vào buổi sáng, khi chưa ăn sáng và cách bữa ăn tối hôm trước 12 giờ cho tất cả đối tượng nghiên cứu. Định lượng bilan lipid gồm: Cholesterol toàn phần (CT), Triglyceride (TG), HDL-c và LDL-c theo phương pháp so màu enzym, phân tích kết quả trên máy sinhhóa tự động hiệu HITACHI 917.

Đánh giá kết quả:

Bảng 3. Đánh giá mức độ RLLPM theo NCEP, ATPIII (5/2001) [12]


Định lượng glucose máu:  Mẫu máu được lấy cùng lúc để làm Bilan lipid. Định lượng bằng phương pháp so màu enzyme theo kỹ thuật GLUCO-PAP.

Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường: Theo tiêu chuẩn của ADA năm 2010 [13].

- Tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH của ATP III.

+ Glucose máu lúc đói > 6,1 mmol/l.

+ Huyết áp ≥ 130/85 mmHg.

+ Triglycerid ≥ 1,7 mmol/l (>150mg/dl).

+ HDL-c < 1,03 mmol/l ở nam; < 1,29 mmol/l ở nữ.

+ VB ≥ 90 cm (với nam); ≥ 80 cm (với nữ). Xác định HCCH phải có từ 3 tiêu chuẩn trở lên [13].

+ Hút thuốc lá: Theo tiêu chuẩn của TCYTTG, hút thuốc lá          được tính theo   đơn vị gói/năm, chia làm 3 mức độ: <10 gói/năm, 10-20 gói/năm và >20gói/năm [13].

- Tiêu chuẩn chẩn đoán gan nhiễm mỡ: Dựa trên độ hồi âm và độ hút âm gia tăng chia gan nhiễm mỡ thành 3 mức độ trên siêu âm:

+ Độ 1: Tăng nhẹ độ hồi âm lan tỏa nhu mô, mức hút âm nhỏ, xác định được cơ hoành và bờ đường tĩnh mạch trong gan.

+ Độ 2: Lan tỏa độ hồi âm gia tăng và độ hút âm nên khả năng nhìn thấy bờ các tĩnh mạch trong gan và cơ hoành giảm.

+ Độ 3: Gia tăng độ hồi âm, tăng độ hút âm, không thấy rõ bờ đường tĩnh mạch gan và cơ hoành[13].

Định lượng ure máu và creatinin: Để đánh giá chức năng thận.

Định lượng CK, CK-MB: Để theo dõi bệnh lý mạch vành.

Xử lý số liệu: Ứng dụng phần mềm SPSS 18.0 và Medcalc.

4. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Qua nghiên cứu 350 đối tượng từ 60 tuổi trở lên, chúng tôi thu được các kết quả sau đây:

Bảng 4. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới


Kết quả cho thấy các nhóm tuổi tỷ lệ nữ đều cao hơn nam giới trong đó nhóm tuổi 60-69 cao nhất chiếm 60,3% có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,0001. Tương                đương kết quả Nguyễn Đào Dũng [2], so sánh với Phạm Hữu Tài thì độ tuổi từ 70-79 chiếm tỷ lệ cao 56,43% cao hơn kết quả của chúng tôi. Có thể giải thích do cách chọn mẫu và đối tượng nghiên cứu khác nhau.

Bảng 5. Các chỉ số nhân trắc giữa hai giới


Trong nghiên cứu của chúng tôi, trị trung bình của tuổi, vòng bụng, BMI giữa hai giới tương đương nhau. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. Tương đương với kết quả nghiên cứu của Phạm Hữu Tài [9], Nguyễn Đào Dũng [2].

Bảng 6. Đặc điểm các yếu tố nguy cơ theo giới


Trong nghiên cứu của chúng tôi, RLLPM chiếm tỷ lệ 77,4%, tương đương với kết quả của Phạm Hữu Tài ở người cao tuổi có hội chứng mạch vành cấp là 76,23% [9], nghiên cứu của         Cao Lý Vĩnh Quý trong cộng đồng có tỷ lệ RLLP máu là 60,6% thấp hơn của chúng tôi 77,4%[8].

Bảng 7. So sánh trị trung bình các chỉ số lipid giữa hai giới


Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ rối loạn cholesterol máu chiếm 53,4 với nồng độ trung bình là 5,35 ± 1,17 tương đương với Phạm Hữu Tài là 54,46% và nồng độ trung bình là 5,42 ± 1,40 mmol/L[9], với Hồ Anh Bình là 52,17% và nồng độ trung bình là 5,459 ± 1,345 mmol/l, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p < 0,01)[9].

Nghiên cứu PROCAM có mức trung bình ở người bị BMV là 6,51 ± 1,22mmol/l và cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê [12].

Nghiên cứu MRFIT trên 361.622 nam, tuổi từ 35 tới 57 thấy nguy cơ  tử vong do bệnh mạch vành tăng nhẹ khi CT từ 1.4g/l lên 2g/l, gấp ba lần khi CT tăng lên 3g/l [12].

Kannell và cs nghiên cứu trên 5.000 bệnh nhân theo dõi trong vòng 14 năm thấy có mối tương quan thuận giữa nguy cơ bệnh mạch vành và CT: Khi CT 2g/l nguy cơ tăng lên 2,25 và khi CT tăng lần lượt là 2,4- 2,5g/l và > 2,6g/l nguy cơ tăng lên 3,25 [13].

Bảng 8. Phân bố rối loạn các chỉ số lipid máu theo giới


Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả cao hơn của Nguyễn Đào Dũng, Đinh Hoàng Việt [2], [10].

Bảng 9. Liên quan giữa rối loạn lipid máu với mức độ tăng huyết áp

 

Về tỷ lệ THA, nghiên cứu của chúng tôi là 69,7% trong đó THA độ I là 29,4%, THA độ II là 36,9% và THA độ III là 3,4%. Tỷ lệ THA của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu ở người cao tuổi của Nguyễn     Đào Dũng, Nguyễn   Đức Hoàng [2],[3], tương    đương nghiên cứu của            Cao Lý Vĩnh Quý [8].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tăng CT, TG và non HDL-c chiếm tỷ lệ cao ở cả THA độ I, độ II và độ III. Ngoài ra LDL-c và HDL-c có tỷ lệ tương đương ở cả 3 mức độ THA. Kết quả của chúng tôi cũng cao hơn kết quả nghiên cứu trong cộng đồng người cao tuổi của Đào Duy An, Đinh Hoàng Việt, Cao Lý Vĩnh Quý. Chứng tỏ tỷ lệ THA tăng cùng với thời gian và sự phát triển kinh tế (Bảng 4.1) [1], [8], [10].

Bảng 10. So sánh với các nghiên cứu cộng đồng


Bảng 11. Liên quan giữa rối loạn lipid máu với gan nhiễm mỡ

   

Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ gan nhiễm mỡ khá cao 56,28%, tỷ lệ gan nhiễm mỡ có liên quan  đến rối loạn lipid máu chiếm 63,84%, tỷ  lệ gan nhiễm mỡ không có rối loạn lipid chiếm 30,38%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,001.

Bảng 12. Phân độ gan nhiễm mỡ



Kết quả nghiên cứu  cho thấy tỷ lệ gan nhiễm mỡ độ 1 chiếm 64%, độ 2 chiếm 34,5% và độ 3 chiếm 1,5%,sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Tại Châu Á, một nghiên cứu của Trung Quốc (2005) cho thấy tỷ lệ gan nhiễm mỡ tăng lên dần theo thời gian và liên quan đến một số yếu tố như béo phì, rối loạn lipid máu, tăng glucose máu, tăng HA [13].

Hầu hết các nghiên cứu đều ghi nhận béo phì trung tâm, tăng HA, tăng glucose máu và rối loạn lipid máu trầm trọng theo mức độ gan nhiễm mỡ [13].

Bảng 13. Tỷ lệ các thành tố của HCCH theo ATP III (2001)


Một số nghiên cứu như nghiên cứu của Nguyễn Đức Hoàng ở nông thôn Thừa Thiên Huế cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì theo BMI chỉ có 14,65% trong khi tính theo vòng bụng lại rất cao 62,62% [3]. Nhìn chung qua kết quả các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ béo phì tính theo vòng bụng cao hơn rất nhiều so với BMI. Vì vậy, để đánh giá béo phì ở nước ta, ngoài tính BMI cần lưu ý đo vòng bụng để đánh giá béo phì trung tâm.

Bảng 14. Tương quan giữa các thành phần lipit máu với tuổi, BMI, vòng bụng, trị số huyết áp và mứcđộ gan nhiễm mỡ


Nghiên cứu của chúng tôi  có sự tương quan mức độ vừa giữa CT toàn phần với BMI, VB và độ THA. Có sự tương quan mức độ vừa giữa TG với tuổi, BMI, VB, độ THA. Có sự tương quan mức độ vừa giữa LDL-c với BMI và độ THA, p<0,001. Không có sự tương quan giữa HDL-c với các yếu tố nguy cơ tim mạch và gan nhiễm mỡ, p>0,05.

Nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Loan cho thấy ở bệnh nhân tăng HA có hơn 50% là có tăng cholesterol toàn phần và/hoặc tăng triglycerid. Có khỏang 1/3 bệnh nhân tăng HA có tăng LDL-c. Giảm HDL-c trên bệnh nhân tăng HA chiếm tỉ  lệ  rất thấp (5,33%). THA có tương quan với cholesterol toàn phần (r=0,303, p=0,0001) và triglycerid (r= 0,208, p=0,0001) [7].

Nghiên cứu Cao Lý Vĩnh Quý có mối tương quan thuận mức độ nhẹ giữa tăng huyết áp với rối loạn lipid máu (r=0.225, p<0,05)[8].

Bảng 15. BMV, các bệnh lý tương đương BMV và các yếu tố nguy cơ


Vì nghiên cứu ở người cao tuổi nên tuổi mắc bệnh ở nam ≥45, nữ ≥55 chiếm 100%. Tỷ lệ THA, ĐTĐ, tăng LDL-c và BMV chiếm tỷ lệ cao trong đó BMV đang tiến triển, hút thuốc lá và giảm HDL-c có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,005. So sánh nghiên cứu của           Phạm Hữu Tài ở người cao tuổi có BMV thì RLLP máu chiếm tỷ lệ cao nhất 76,2%, ĐTĐ là 74,3% và hút thuốc lá 47,5% [9].

Nghiên cứu của Tohidi và cs ở 2831 phụ nữ không bị THA, theo dõi trong gần 7 năm, có 397 người bị THA sau đó, cứ tăng thêm một độ lệch chuẩn của TG, tỷ CT/HDL-c và TG/HDL-c thì tăng nguy cơ của THA lên lần lượt là 16, 19 và 18% và tăng thêm một độ lệch chuẩn của HDL-c thì giảm nguy cơ của THA xuống 14% (p<0,05). Tăng TG, tỷ CT/HDL-c và TG/HDL-c là nguy cơ độc lập của THA, không liên quan đến béo phì và đề kháng insulin [14].

5. KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 350 người cao tuổi chúng tôi rút ra kết luận như sau:

(1) Đặc điểm rối loạn lipid ở người cao tuổi:

- Tỷ  lệ  rối loạn lipid máu chiếm 77,4% trong đó nữ cao hơn nam (51,4% so với 26,9%), p<0,005. Tăng CT chiếm 53,4%, TG chiếm 33,1%, LDL-c chiếm 39,4%, HDL-c giảm chiếm 4,9%.

- Các yếu tố nguy cơ: THA chiếm 69,72%, ĐTĐ chiếm 38,29%, béo phì chiếm 71,71%, hút thuốc lá 14%, có sự khác biệt giữa hai giới có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

(2) Mối liên quan, tương quan giữa các thành phần lipid máu với tuổi, BMI, vòng bụng, vòng mông, gan nhiễm mỡ, trị số huyết áp và các biến cố tim mạch.

Về tỷ lệ THA nghiên cứu của chúng tôi là 69,7% trong đó THA độ I là 29,4%, THA độ II là 36,9% và THA độ III là 3,4%.

Tăng CT, TG và non HDL-c chiếm tỷ lệ cao ở cả THA độ I, độ II và độ III trong khi LDL- c và HDL-c có tỷ lệ tương đương ở cả 3 mức độ THA.

Tỷ lệ gan nhiễm mỡ có liên quan đến rối loạn lipid máu chiếm 49,43%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,001. Tỷ lệ gan nhiễm mỡ độ 1 chiếm 64%, độ 2 chiếm 34,5% và độ 3 chiếm 1,5%.

Có sự tương quan mức độ vừa giữa CT toàn phần với BMI, VB và độ THA; giữa TG với tuổi, BMI, VB, độ THA; giữa LDL-c với BMI và độ THA, p<0,001. Không có sự tương quan giữa HDL-c với các yếu tố nguy cơ tim mạch và gan nhiễm mỡ, p>0,05.